Các cuộc bầu cử Hoàng đế Tuyển đế hầu (Kurfürst)

Bản khắc mô tả các Tuyển đế hầu bầu chọn Matthias làm Hoàng đế La Mã-Đức trong năm 1612Hoàng đế và 8 Tuyển đế hầu (của Trier, Cologne, Mainz, Bohemia, Bayern, Sachsen, BrandenburgPalatinate). Bản khắc của Abraham Aubry, Nuremberg, 1663/1664.

Sau khi một Hoàng đế La Mã Thần thánh qua đời, trong vòng 1 tháng, Tổng giám mục của Mainz sẽ triệu tập các Tuyển đế hầu, và họ nhóm họp với nhau trong vòng 3 tháng sau khi được triệu tập. Trong thời gian diễn ra bầu chọn hoàng đế mới (interregnum), quyền lực của Đế chế La Mã Thần thánh được thực thi bởi 2 Đại diện hoàng gia (Imperial vicar)[3]. Theo Golden Bull, mỗi Đại diện hoàng gia là người quản lý của chính đế chế, với quyền lực có thể thông qua các phán quyết, hiệp thông với các lãnh đạo Giáo hội, thu về lợi nhuận từ các thái ấp, tiếp nhận các lời thề trung thành với Đế chế La Mã Thần thánh. Tuyển để hầu Sachsen là một Đại diện hoàng gia, thực hiện quyền lực ở các khu vực theo Luật Sachsen (Công quốc Sachsen, Westphalia, Tuyển hầu quốc Hannover và miền Bắc nước Đức)[3], trong khi Tuyển đế hầu Palatine là đại diện ở phần còn lại của Đế chế (Franconia, Swabia, Rhine và miền Nam nước Đức)[3]. Tuyển đế hầu Bayern thay thế Tuyển đế hầu Palatine trở thành Đại diện hoàng gia từ năm 1623, nhưng từ năm 1648, đã có một cuộc tranh cãi giữa 2 nhà cai trị Palatine và Bayern về việc ai mới là Đại diện hoàng gia. Cuối cùng, Tuyển đế hầu Bayern đã được công nhận. Sau đó, hai Tuyển đế hầu Palatine và Bayern đã ký một thoả thuận để cùng giữ quyền đại diện, nhưng Đại hội Đế chế đã bác bỏ thoả thuận này. Năm 1711, trong khi Tuyển đế hầu Bayern bị Lệnh cấm của hoàng gia[4], Palatine một lần nữa đóng vai trò là đại diện, nhưng sau đó người cai trị xứ Bayern đã được phục chức.

Cuối cùng, vào năm 1745, hai nhà cai trị đồng ý sẽ luân phiên nắm giữ ghế Đại diện hoàng gia, trong đó Bayern sẽ bắt đầu trước. Sự sắp xếp này đã được công nhận bởi Đại hội Đế chế năm 1752. Năm 1777, câu hỏi đã được giải quyết khi Tuyển đế hầu Palatine thừa kế lãnh thổ của Tuyển hầu quốc Bayern.

Frankfurt thường xuyên là địa điểm tổ chức bầu cử, kể từ thế kỷ XV trở đi, nhưng các cuộc bầu cử cũng được tổ chức tại Cologne (1531), Regensburg (1575 và 1636), và Augsburg (1653 và 1690). Một Tuyển đế hầu có thể đích thân xuất hiện để bỏ phiếu hoặc có thể uỷ nhiệm cho một Tuyển đế hầu khác bỏ phiếu thay mình. Thông thường, một đại sứ hoặc đại diện của Tuyển đế hầu sẽ thay mặt; Chứng nhận của những người đại diện như vậy sẽ được thông qua bởi Tổng giám mục Mainz, người chủ trì buổi lễ. Các cuộc thảo luận được tổ chức tại tòa thị chính, nhưng việc bỏ phiếu sẽ diễn ra ở nhà thờ lớn Frankfurt, hay Wahlkapelle, đã được sử dụng cho các cuộc bầu cử. Dưới thời Golden Bull, đa số Tuyển đế hầu đã đủ điều kiện để bầu ra vua và mỗi Tuyển đế hầu chỉ được bỏ một phiếu bầu. Các Tuyển đế hầu được tự do bỏ phiếu cho bất kỳ ai họ muốn (bao gồm cả chính họ).

Các Tuyển đế hầu sẽ soạn thảo ra một Wahlkapitulation (tiếng Anh: electoral capitulation), được trình lên cho hoàng đế vừa đắc cử, văn bảng này có thể hiểu là một hợp đồng giữa các Thân vương trong đế chế với Hoàng đế mới. Sau khi tuyên thệ tuân thủ theo quy chế của Wahlkapitulation, người được các Tuyển đế hầu bầu chọn sẽ đảm nhận chức vụ Vua của người La Mã.[5]

Vào thế kỷ X và XI, các Thân vương thường chỉ bỏ phiếu để xác nhận quyền kế vị cha truyền con nối thuộc Vương triều Otto của người Sachsen và Vương triều Salia của người Frank. Nhưng với sự hình thành của các Tuyển đế hầu thì các cuộc bầu cử trở nên cởi mở hơn, bắt đầu bằng cuộc bầu chọn của Hoàng đế Lothair III vào năm 1125. Sau khi Vương triều Salia bị tuyệt tự dòng nam[6], các Tuyển đế hầu bắt đầu bầu ra các vị hoàng đế thuộc vương tộc khác, để đảm bảo rằng ngai vàng không bị thao túng mãi mãi trong một gia tộc.

Trong khoảng 2 thế kỷ, ngôi vị Hoàng đế La Mã Thần thánh được thực hiện dưới chế độ tuyển cử cả về lý thuyết và thực tế; Tuy nhiên, điều này đã không kéo dài, vì bắt đầu từ thế kỷ XV, Vương tộc Habsburg hùng mạnh đã thao túng quyền kế vị, đảm bảo rằng ngai vàng của đế chế sẽ thuộc về gia tộc mình. Tất cả các vị hoàng đế La Mã Thần thánh từ năm 1438 trở đi đều nằm trong tay của các Quân chủ Habsburg, chủ nhân của Đại công quốc Áo, Vương quốc Bohemia, Vương quốc Hungary và nhiều lãnh địa khác ở khắp châu Âu. Năm 1740, khi Đế chế Habsburg được thừa kế bởi dòng nữ là Maria Theresa, điều này đã châm ngòi cho Chiến tranh Kế vị Áo.

Một đại diện đến từ Nhà Wittelsbach đã được bầu làm hoàng đế trong một thời gian ngắn, nhưng vào năm 1745, chồng của Maria Theresa là Franz I, tổ phụ của Nhà Habsburg-Lorraine đã được bầu làm hoàng đế. Tất cả những người kế vị của ông sau này đều tiếp bước trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh. Do đó, trong phần lớn lịch sử của Đế chế, vai trò của các Tuyển đế hầu chủ yếu là nghi lễ.